Tổng quát Di_truyền_Mendel

Mendel đã thí nghiệm trên nhiều loại đối tượng, nhưng công phu nhất là trên đậu Hà Lan (có hoa lưỡng tính tự thụ phấn nghiêm ngặt). Ông đã trồng khoảng 37000 cây, tiến hành lai 7 cặp tính trạng thuộc 22 giống đậu trong 8 năm liền, phân tích trên một vạn cây lai và khoảng 300000 hạt. Từ đó đã xây dựng 3 định luật di truyền từ thực nghiệm (năm 1865), đặt nền móng cho di truyền học.

Các quy luật do ông đề xuất còn được gọi là định luật, hay đôi khi là quy tắc, luật Menđen mô tả quá trình di truyền các đặc tính biểu hiện bên ngoài, được xác định bởi một gen duy nhất. Quy tắc này được đặt theo tên của người phát hiện ra chúng Gregor Mendel. Ông là người đã công bố đầu tiên kết quả thí nghiệm ở cây đậu Hà Lan (pisum sativum)[5] vào năm 1866.

Các quy tắc Mendel chỉ áp dụng cho các sinh vật lưỡng bội với tế bào mầm đơn bội – chúng bao gồm hầu hết các loài động vật và thực vật. Đối với các sinh vật đa bội thể người ta có thể suy ra từ đây các quy tắc di truyền tương ứng.

Do phát hiện thêm nhiều hiện tượng di truyền khác, thí dụ như hiện tượng liên kết di truyền nên hợp từ „định luật Mendel“ (mendelsche Gesetze) dùng trước đây được chuyển thành hợp từ chính xác hơn "Quy tắc Mendel" (mendelschen Regeln) trong các công bố khoa học và sách giáo khoa mới.